Phiên họp chuyên đề góp ý dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi)
Chiều 17/1, Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực đã tổ chức phiên họp chuyên đề góp ý dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi). Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, Ủy viên Thường trực Hội đồng chủ trì phiên họp.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ chủ trì phiên họp chuyên đề góp ý dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) của Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực
Không nên đưa triết lý giáo dục vào Luật
Tại phiên họp, các thành viên Hội đồng đã trao đổi xung quanh các vấn đề cần lấy ý kiến trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi), qua đó làm sâu sắc thêm một số nội dung như triết lý giáo dục, xã hội hóa giáo dục, phân luồng, hướng nghiệp…
Nêu quan điểm về triết lý giáo dục, GS.TS Phạm Tất Dong, Ủy viên Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho biết, ông coi “Học để làm người” là triết lý giáo dục bởi 3 lí do:
Một là, các thế hệ con người Việt Nam trước đây đã quan niệm đúng đắn rằng, dù giàu hay nghèo, trong cuộc sống ít nhiều cũng phải có cái chữ, nghĩa là phải học, có học mới nên khôn.
Hai là, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã từng nói rằng, học để thành cán bộ tốt, công dân tốt, chiến sĩ tốt, tức là thành người ở những cương vị hoạt động khác nhau.
Ba là, trong trào lưu xây dựng xã hội học tập, UNESCO đã khuyến cáo học tập suốt đời xoay quanh 4 trụ cột giáo dục: Học để biết, học để làm người, học để chung sống và học để làm người.
Nếu gắn vấn đề học để làm người với vấn đề học tập suốt đời, theo GS Phạm Tất Dong, triết lý học để làm người có thể được phát biểu theo mệnh đề học suốt đời để làm người, hoặc nói khái quát hơn thì sẽ là học suốt đời vì sự phát triển bền vững.
Nêu quan điểm về việc có nên hay không đưa triết lý giáo dục vào Luật Giáo dục (sửa đổi), GS Phạm Tất Dong cho rằng, điều đó không nên và không đúng. Vì triết lý giáo dục là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh giáo dục chứ không nên đưa vào Luật giáo dục.
Xã hội hóa không chỉ dựa vào học phí
Một trong những vấn đề quan trọng được đề cập trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) là chính sách xã hội hóa giáo dục. TS. Phạm Thị Ly – Ủy viên Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nguồn nhân lực – cho rằng, mặc dù chủ trương xã hội hóa giáo dục đã được khẳng định từ lâu trong các nghị quyết của Đảng, của Chính phủ, và sự tham gia của khu vực tư đã tạo ra nhiều thay đổi đáng kể trong giáo dục, vẫn đang có những điểm bất cập đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc để có những chính sách phù hợp.
Cho tới nay, các luật chuyên ngành về đất đai, tài chính, tín dụng, thuế đã có chính sách ưu đãi xã hội hóa nói chung nhưng chưa có chính sách riêng hỗ trợ chính sách xã hội hóa giáo dục. Các quy định về bảo hộ, ưu đãi, khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực GD&ĐT còn chung chung, không cụ thể.
TS. Phạm Thị Ly cho rằng, cần phải xác định lại quan điểm, hiểu đúng về xã hội hóa. Xã hội hóa không phải chỉ dựa vào học phí, xã hội hóa phải dựa vào các nguồn lực đa dạng của xã hội, không chỉ dựa vào người học. Điều này, theo TS Phạm Thị Ly, đã thể hiện tương đối rõ trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi).
Đơn cử, dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) đã nêu ra nhiều điểm cụ thể để hỗ trợ cho khu vực giáo dục tư, chẳng hạn như Điều 96 quy định “các khoản đóng góp, tài trợ của cá nhân cho giáo dục được trừ vào thu nhập chịu thuế, tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng công trình phục vụ giáo dục, ủng hộ tiền hay hiện vật thì được xem xét để ghi nhận bằng hình thức thích hợp”.
Ngoài ra, các đầu tư và đóng góp cho giáo dục, cũng như chi phí của doanh nghiệp trong việc đào tạo nhân viên cũng được tính là chi phí hợp lý được trừ khi tính thu nhập chịu thuế. Cần điều chỉnh các luật liên quan và ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện cẩn thiết để đẩy mạnh kênh đóng góp này.
Bài toán phân luồng phải đặt trong mối quan hệ với bài toán liên thông
Góp ý liên quan đến nội dung phân luồng, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến – nguyên trợ lý Bộ trưởng Bộ GD&ĐT – cho rằng: Nghị định 75 hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục có quy định cụ thể về phân luồng. Nếu thực hiện nghiêm chỉnh quy định đó, chắc chắn phân luồng sẽ có chuyển biến.
Tuy nhiên, vấn đề phân luồng đến nay vẫn còn nhiều hạn chế. Lý giải, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến nhắc đến nhiều nguyên nhân, trong đó, một nguyên nhân còn ít được nhắc đến, đó là chúng ta chưa quan tâm đặt bài toán phân luồng trong mối quan hệ với bài toán liên thông, và cả hai cần nhìn trong một bối cảnh mới là học tập suốt đời.
“Bài toán phân luồng phải đặt trong mối quan hệ với bài toán liên thông và cả hai bài toán cần được tìm lới giải trong khuôn khổ của việc xây dựng hệ thống học tập suốt đời. Lý do rất đơn giản: Nếu phân luồng gắn với liên thông thì người học đi vào luồng nghề sẽ không còn cảm thấy đi vào ngõ cụt như trược kia mà vẫn có thể học tiếp ở các trình độ cao hơn; tiếp nữa đặt trong bối cảnh học tập suốt đời sẽ tạo điều kiện và động lực để người lao động nâng cao trình độ theo sở thích, năng lực và điều kiện cụ thể của cá nhân” – TS Phạm Đỗ Nhật Tiến phân tích.
Với cách đặt vấn đề như trên, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, lời giải của bài toán phân luồng và liên thông phụ thuộc vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện thành công Khung trình độ quốc gia. Vì vậy, để đóng góp về phương diện pháp lý cho việc tổ chức thực hiện thành công nhiệm vụ phân luồng và liên thông trong giáo dục, bên cạnh các quy định về trách nhiệm của Bộ GD&ĐT, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội như trong Nghị định 75, cần bổ sung trách nhiệm của các bộ đó trong việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện Khung trình độ quốc gia.
Luật Giáo dục không chỉ là trường, thầy mà còn là môi trường, sinh thái giáo dục
Đó là ý kiến của ông Dương Trung Quốc – Ủy viên Hội đồng – tại cuộc họp. Theo ông Dương Trung Quốc, hiện nay khi sửa Luật Giáo dục, chúng ta vẫn đang bàn đến giáo dục học đường, mà giáo dục học đường chỉ là một bộ phận chứ không phải tổng thể của giáo dục. Giáo dục còn có gia đình, cộng đồng. Vì vậy, khi nói tới xã hội hóa giáo dục là đòi hỏi toàn xã hội tham gia vào giáo dục, chứ không phải do một số người không hiểu hết mà biến báo xã hội hóa thành chuyện “tiền”.
“Tôi rất muốn Luật Giáo dục đi vào thực tiễn đời sống hôm nay. Ví dụ nói về sách giáo khoa, tại sao đối với những ngành kỹ thuật, công nghệ chúng ta lại không đặt ra việc cho phép được sử dụng sách giáo khoa của nước ngoài. Trên thực tế Luật 10, 15 năm sẽ phải thay đổi nên những gì phù hợp trong giai đoạn này – một giai đoạn chuyển đổi rất lớn – chúng ta phải đưa vào’ – Ông Quốc nêu quan điểm.
Đề cập đến cuộc cách mạng 4.0 đang được nhắc đến nhiều hiện nay, ông Dương Trung Quốc lưu ý, trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) cần đề cập rõ ràng hơn nữa về vấn đề công nghệ. Bởi việc học hiện nay đã vượt ra khỏi không gian của nhà trường, vì vậy, cần có khung pháp lý, cơ chế để tạo điều kiện cho không gian công nghệ trong giáo dục được phát triển.
Phát biểu tại phiên họp, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, Ủy viên Thường trực Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực cho biết, Ban soạn thảo sẽ tiếp thu đầy đủ ý kiến góp ý của các thành viên Hội đồng để hoàn thiện dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) trước khi báo cáo Thủ tướng và trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7.
Ngoài ra, Bộ trưởng cũng đề cập đến các hoạt động của Hội đồng trong năm 2019, trong đó nhấn mạnh một số chủ đề Hội đồng sẽ xem xét cho ý kiến trong năm nay như vấn đề tự chủ của các trường phổ thông; vấn đề hội đồng trường ở bậc đại học; vấn đề sắp xếp các cơ sở giáo dục đại học, sắp xếp hệ thống các trường sư phạm…
Bộ trưởng mong rằng, Hội đồng sẽ phát huy hơn nữa vai trò tư vấn, “trọng tài” để một bên là các đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học và một bên là các chính sách giáo dục do các đơn vị thuộc Bộ GD&ĐT xây dựng sẽ tìm thấy tiếng nói chung, đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững của giáo dục và đào tạo.